BÍ TÍCH HÔN NHÂN
VÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY (1)
Trong hệ thống bảy Bí tích của Giáo hôn, Bí tích Hôn Phối được coi là “sinh sau đẻ muộn” mặc dầu có thể nói, hôn nhân là thể chế cổ kính nhất trong nền văn hóa nhân loạị
Thật vậy phải đợi đến thế kỷ XII Giáo Hội mới chính thức công nhận đặc tính bí tích của hôn nhân sau một thời gian dài tranh luận giữa các nhà thần học và Giáo luật về yếu tố làm cho hôn nhân bất khả phân ly:sự ưng thuận (consensus) hay là việc kết hợp thân xác (copula). Bởi Các nhà thần học nhìn yếu tố bất khả phân ly là đặc tính bí tích của hôn nhân. Mãi đến khi nhà giáo luật nổi tiếng thời đó được bầu làm Giáo hoàng với danh hiệu Alexander III (1159 – 1181), cuộc tranh luận mới đi đến chỗ ngã ngũ khi ngài bày tỏ chính kiến trong lá thơ gởi cho Giám mục Brixen, theo đó sự ưng thuận mà hai người phối ngẫu tỏ bày cho nhauconsensus) là yếu tố làm cho một hôn nhân thành sự (matrimonium ratum), và việc hiến trao thân cho cho nhau giữa hai người phối ngẫu (copula) là yếu tố làm nên đặc tính bất khả phân ly của hôn nhân ( matrimonium consumatum). Có nghĩa là sự ưng thuận mà hai người phối ngẫu ngỏ cho nhau được coi như một hành vi trao cho nhau quyền luật định được thực hiện những liên hệ phu phụ ngay cả khi những liên hệ ấy không xẩy rạ Cho nên kể từ lúc tỏ bày sự ưng thuận, hai người phối ngẫu thực sự trao cho nhau một khế ước hôn nhân. Và tự nó khế ước nầy không thể bị hủy bỏ. Tuy nhiên vì Giáo Hội có quyền tài phán trên khế ước ấy do quyền “chìa khóa” Nước Trời mà Chúa Giêsu trao ban, hôn ước ấy có thể được tuyến bố vô hiệu (nullified/annulled) bởi thẩm quyền của Giáo Hội nếu liên hệ tính dục giữa hai vợ chồng chưa xẩy rạ
Năm 1184 Công đồng Verona xác định về đặc tính bí tích của hôn nhân (DH 718), và đến năm 1274 Công đồng chung Lyon II mới liệt kê hôn nhân và bí tích thứ bảy của Giáo hôi (DH 860)
Một sự công nhận muộn màng như thế để nói lên rằng Bí tích Hôn phối luôn đối diện với bao thách đố. Trước tiên người ta nại đến đặc tính thánh thiêng của bí tích để khước từ tính bí tích của hôn nhân, bởi yếu hôn nhân liên hệ đến giao hợp tính dục. Trong những thề kỷ của đầu thời Trung Cổ, mặc dầu Giáo hội vẫn luôn coi việc sinh sản của hôn nhân là phúc lành của Thiên Chúa, nhưng phần lớn các nhà lãnh đạo Giáo Hội đều coi đức đồng trinh trọng hơn hôn nhân. “Cho nên thời Trung Cổ vẫn coi hôn nhân là cái gì tiêu cực như phương thuốc chống lại nhục dục hơn là cái gì tích cực như phương thế để nên thánh, và chính những thèm muốn tính dục kia bị coi là tội lỗi hoặc ít nhất cũng là nguy hiểm. Một vài Giám mục khi chúc lành cho các đôi tân hôn đã khuyên họ nên tránh giao hợp trong ba ngày để tỏ lòng kính trọng phép lành họ mới lãnh nhận; một vài vị khác khuyên họ đừng đến nhà thờ một tháng sau ngày cưới, hoặc ít nhất không nên rước lễ khi thân xác và linh hồn họ còn vấy bẩn vì giao hợp. Phần lớn các tác giả cho rằng các hoạt động tính dục đều là tội lỗi trừ khi được thực hiện với mục đích duy nhất là muốn có con, nhưng phần đông cũng tin rằng ngay cả ở đây nữa, con cái cũng không thể tượng thai mà không có vấn vương một chút khóai cảm nhục thân.”[1]
Bước vào hậu bán thế kỷ 20 và tiền thế kỷ 21, Bí tích Hôn nhân lại tiếp tục đối diện với thách đố mới, không là về tính bí tích có nơi hôn nhân hay không, nhưng là tìm cách loại trừ đặc tính bí tích ra khỏi hôn nhân.
1- Giá trị của Hôn Nhân tự nhiên
Khi xác định tính bí tích của hôn nhân Giáo Hội nhằm nhấn mạnh đến giá trị của đời sống hôn nhân Kitô giáọ Thật vậy, “Chúa Kitô đã nâng hôn nhân lên phẩm trật Bí tích và đồng thời Người làm cho bậc vợ chồng, vốn được bao bọc và bồi dưỡng bởi ân sủng Thiên quốc xuất phát từ công đức của Người đã đưa thứ tình yêu phù hợp với bản tính của chúng ta đến mức thập toàn, một cách kỳ diệu giống y như nguyên mẫu là sự phối hợp huyền nhiệm của Người với Giáo Hội và dùng mối tương quan bác ái thánh thiêng mà thắt chặt hơn nữa mối liên kết, theo bản chất vốn là bất khả phân ly giữa người nam và người nữ”[2]. Nhờ đó “hôn nhân trở thành dấu hiệu và nguồn suối của ân sủng nội tâm đặc biệt nhằm đưa tình yêu lứa đôi đến mức thập toàn, củng cố mối hiệp nhất bất khả phân ly và thánh hóa bậc vợ chồng”[3].
Như vậy hôn nhân tự nhiên của những người ngoài Kitô giáo thì sao, nó mang một giá trị gì?
Công đồng Vat. II đã trả lời: “Ðấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho cộng đoàn tình yêu vợ chồng. Ðời sống chung này được gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là sự ưng thuận cá nhân không thể rút lạị Như thế, bởi một hành vi nhân linh, trong đó, hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã hội nữạ Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội, nên sợi dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con ngườị Chính Thiên Chúa là Ðấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu khác nhau; những điều ấy hết sức quan trọng đối với sự tiếp nối nhân loại, sự phát triển cá nhân và phần rỗi đời đời của mỗi thành phần trong gia đình, quan trọng đối với phẩm giá, sự vững chãi, an bình và thịnh vượng của chính gia đình và của toàn thể xã hội loài ngườị Tự bản chất, chính định chế hôn nhân và tình yêu lứa đôi qui hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh diễm phúc của hôn nhân. Như thế, bởi giao ước hôn nhân, người nam và người nữ "không còn là hai, nhưng là một xương thịt" (Mt 19,6), phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly” (GS số 48).
Như vậy, hôn nhân tự nhiên là một định chế do Thiên Chúa thiết lập chứ không do người phàm kiến tạo nên. Do đó tự bản chất hôn nhân tự nhiên cũng mang đặc tính bất khả phân ly và qui hướng về việc sinh sản và giáo dục con cáị
Do đó, hôn nhân không phải là "sản phẩm" của riêng Kitô giáo mà là di sản của toàn thể nhân loạị Trong cuốn Giáo Lý Công Giáo (GLCG) ban hành ngày 11. 10. 1992, GH đã khẳng định: Hôn nhân nằm ngay trong bản tính tự nhiên của con người (1603).
Theo đó, hôn nhân là hình thức “sống chung” giữa một người nam và một người nữ mang tính bền lâu, có thể nói là suốt đời qua việc trao hiến thân xác cho nhaụ Tuy nhiên, khái niệm nầy không phải là một tiêu chí được áp dụng cho mọi thời đại và mọi nền vân hóạ Thật vậy, đã và đang có đủ loại hình thức phối hợp vững bền giữa một người nữ và nhiều người nam, hay giữa một người nam và nhiều người nữ. Hình thức sống chung giữa một người nam và một người nữ được coi là một cuộc thay đổi lớn lao về khái niệm hôn nhân trong phần lớn các nền văn hóa trên thế giới mà ngày nay chúng ta gọi là đơn hôn (monogamie), và được coi là định chế hôn nhân lý tưởng.
Hôn nhân luôn là sự kiện thuộc lãnh vực mang đặc tính xã hộị đó là một định chế được xã hội loài người công nhận và chấp nhận, được xã hội bảo vệ và chuẩn nhận bằng vô số những qui ước, phong tục, và điều luật thích ứng với những trường hợp khác nhaụ Vì vậy thể chế hôn nhân cho dẫu đơn hôn là một việc làm “không chỉ quan hệ riêng lẻ đến cặp nam nữ ấy mà thôi, nhưng còn liên quan đến cả xã hội nữa; do đó, việc nam nữ kết hợp bền chắc trong hôn nhân không thể là chuyện thuần túy riêng tư được, nhưng là một giao ước cần phải được xã hội nơi mình sinh sống công nhận. Xét cho cùng, hôn lễ là thể cách qua đó xã hội nhìn nhận và chấp thuận sự việc cặp nam nữ ấy sống chung và thành lập một gia đình mới”.[4]
Vì mang đặc tính xã hội, cho nên, đối với tất cả các nền văn hóa nhân loại, hôn nhân luôn được hình thành từ một khế ước được biểu tỏ qua một chuỗi hành vi mang tính biểu tượng mà ý nghĩa của nó được làm sáng tỏ qua tin ngưỡng hay tôn giáọ Trong nền văn hóa cổ xưa các phong tục về hôn nhân thường được tôn kính và coi như thánh thiêng, và theo nghĩa rộng cũng có tính tôn giáo nữạ[5]
Khế ước hôn nhân là yếu tố quyết định để hình thành định chế hôn nhân, Khế ước nầy có thể được biểu tỏ một cách khác nhau tùy theo phong tục, văn hóa của từng thời đại và từng dân tộc. Tựu trung lại, ý nghĩa của khế ước hôn nhân là biểu tỏ sự ưng thuận của người nam và người nữ muốn kết nối với nhau trong đời sống chung thành vợ chồng, kiến tạo mái ấm gia đình, hai người biểu tỏ cho nhau một tình yêu hiến dâng trong tâm hồn lẫn thể xác. Vì vậy, hôn nhân tự nhiên cũng mang đầy đủ đặc tính đơn hôn, bất khả phân ly và cùng có mục đích yêu thương hỗ trợ cho nhau, sinh con và ghíao dục con cáị Giá trị hôn nhân không là sáng kiến do con người áp đặt, nhưng đây là thết định của Thiên Chúạ
2- Hôn nhân Kitô giáo mang tính bí tích
Đức Giáo hoàng Leo XIII (1878 -1903) đã dạy: “hôn nhân là một dấu hiệu thánh thiêng có hiệu quả là ân sủng và biểu thị hình ảnh cuộc phối hợp huyền nhiệm của Đức Kitô với Giáo Hộị Thế nhưng mô hình và hình ảnh cuộc phối nầy được diễn tà trong tương quanrất khăng khít gắn bó nam nữ với nhau, mà tương quan đó không gì khắc hơn là hôn nhân. Kết quả bất cứ hôn nhân hợp pháp nào giữa người Kitô hữu, trong bản chất và tự thân, đều là bí tích”[6]. Giáo huấn Giáo Hội khẳng định: Chính Chúa Kitô đã nâng sự ưng thuận và hai người phối ngẫu là tín hữu trao cho nhau một cách hợp pháp lên hàng bí tích.[7] Do đó “Bí tích gắn liền với hôn nhân Kitô giáo một cách mật thiết đến nỗi giữa những kẻ đã chịu phép Rửa không thể có hôn nhân địch thực nào mà không tự thân là một Bí tích. Vậy khi các tín hữu thành tâm nói lên lời ưng thuận là họ mở rộng kho tàng ân sủng Bí tích, trong đó họ tìm được sức mạnh siêu nhiên để chu toàn các bổn phận và nhiệm vụ của họ một cách trung thành, thánh thiện và kiên vững cho đến chết”[8].
Như vậy Bí tích hôn nhân là dấu chỉ của ân huệ Thiên Chúa trao ban cho đôi vợ chồng để “họ được thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô mà chu toàn bổn phận hôn nhân và gia đình của họ, nhờ đó tất cả đời sống của họ được thấm nhuần đức tin, cậy, mến, và càng ngày họ càng tiến gần hơn tới sự trọn lành riêng biệt của họ và sự thánh hóa lẫn nhau; và bởi đấy, cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa” (GS số 48).
Hôn nhân Kitô giáo không thay đổi giá trị thuộc về hôn nhân tự nhiên. Giáo huấn Giáo hội chỉ dạy rõ ràng: “Ngay tự bản chất, tình yêu vợ chồng đòi hỏi sự đơn nhất và bất khả phân ly cho công đoàn nhân vị bao trùm toàn bộ đời sống của họ” (GLHTCH số 1644), và cũng “tự bản chất, tình yêu hôn nhân đòi hỏi hai vợ chồng phải thủy chung. Đây là hệ quả của việc hai vợ chồng tự hiến cho nhaụ Tình yêu đòi hỏi phải dứt khóat và không tạm bợ” (GLHTCH số 1646). Nhưng nhờ đặc tính bí tích, hôn nhân Kitô giáo nhận được sự trợ giúp đặc biệt của Thiên Chúa qua ân sủng của bí tích phù hợp với bậc sống, để nhờ đó “vợ chồng được củng cố và được thánh hiến để chu toàn nghĩa vụ và nâng cao phẩm giá bậc sống của mình” (Gl điều 1134), và vì có tính bí tính nên những đặc tính chính yếu của hôn nhân là sự đơn nhất và bất khả phân ly mang yếu tố bền vững cách đặc biệt[9].
Hôn nhân Kitô giáo là Bí tích vì đó là môi trường giúp cho vợ chồng cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể qua tình yêu của người yêụ Nói cách khác, trong tình yêu hôn nhân đôi vợ chồng cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể: Họ dễ dàng xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương họ tha thiết trong vòng tay của người yêụ Tình yêu trong hôn nhân như thế chính là hình ảnh tình yêu của Chúa dành cho con ngườị Công đồng Vatican II cũng xác quyết: "Tình yêu chân chính của hai người được thông phần vào tình yêu của Thiên Chúa" (Gaudium et Spes, số 48, 2). Bí tích hôn nhân còn trình bày đến chiều kích gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người được biểu tỏ qua mối dây yêu thương của hai vợ chồng, như José María Castillo mượn lời của Ẹ López Azpitarte : "Nam nữ yêu nhau là chuyện thường tình, tựa như ăn uống và tắm rửa hằng ngày; và như Thiên Chúa đã muốn gặp gỡ và gần gũi chúng ta qua một bữa ăn, hay đã muốn tự trao ban chính mình cho chúng qua việc xức dầu, thì cũng vây, Ngài muốn dùng tình yêu vợ chồng làm nơi gặp gỡ con ngườị Sự việc gặp gỡ giữa hai người nam nữ yêu nhau và tự trao hiến cho nhau quả là một hành động nhân bản mang một tầm trọng yếu hết sức lớn lao đối với cặp tình nhân. Nhưng, ở trong mối tình ấy, đức tin phát hiện ra một chiều kích khác còn sâu sắc hơn nữa, đó là chính Thiên Chúa hiện diện giữa họ qua mối tình ấy, cùng muốn dùng nó làm biểu tượng cụ thể của ơn thánh và tình thương Ngài dành cho con ngườị"[10]
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã trình bày: “Sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người được hoàn tất vĩnh viễn nơi Đức Giê-su Ki-tô, vị Hôn Phu yêu thương và hiến mình làm Đấng cứu độ nhân loại bằng cách kết hiệp nhân loại với Người như chính thân mình Ngườị Người mặc khải sự thật nguyên thuỷ của hôn nhân, sự thật của thuở ban đầu và khi giải phóng con người khỏi tâm hồn chai đá, Người làm cho con người có khả năng thực hiện sự thật này một cách trọn vẹn.
Mặc khải này đạt đến sự viên mãn dứt khoát của nó trong việc trao ban tình yêu mà Ngôi Lời Thiên Chúa ban cho loài người khi Người mặc lấy bản tính nhân loại và trong việc hy sinh mà Đức Giê-su Ki-tô đã hiến mình trên thập giá cho hiền thê của Người là Hội Thánh. Sự hy sinh ấy biểu lộ trọn vẹn ý định mà Thiên Chúa đã ghi khắc vào trong nhân tính của người nam và người nữ từ khi tạo dựng nên họ. Như thế hôn nhân của những người đã chịu phép rửa tội trở nên biểu tượng thật của giao ước mới và vĩnh cửu được ký kết trong máu Đức Ki-tô. Thánh Thần mà Chúa đã đổ tràn xuống, ban cho họ một trái tim mới và làm cho cả người nam và người nữ có khả năng yêu thương nhau như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng tạ Tình yêu vợ chồng đạt tới sự sung mãn là tình bác ái vợ chồng mà do bản chất, là phương thế độc đáo và riêng biệt giúp các đôi vợ chồng tham dự vào tình bác ái của Đức Ki-tô, Đấng trao ban chính mình trên thập giá, và cũng nhờ đó họ được mời gọi sống tình bác ái của Người”. (Tông huấn “Familiaria Consortio”, số 13).
Theo Giáo huấn Giáo Hội, cấu trúc hôn nhân được hình thành “do giao ước hôn nhân giữa một người nam và một người nữ” (Gl điều 1055) có “năng cách về mặt pháp lý” (Gl điều 1057 § 1) được bày tỏ cách hợp pháp và tự do bởi một hành vi của ý chí[11]. Việc hai người phối ngẫu trao nhau hôn ước trong Giáo Hội là một hành vi thuộc bình diện của việc quyết định trong đức tin: “quyết định này được hiểu không chỉ như là hành động công khai nói lên tình liên đới trước mặt Giáo hội, nhưng chủ yếu như là cách thể tự hiện thực hóa của tình liên đới ấy giữa đôi vợ chồng, qua cuộc sống chung trong đức tin, niềm cậy và lòng mến”.[12]
(còn tiếp)
Lm Antôn Hà văn Minh
(Giáo phận Phú Cường)
[1] Vũ văn An, Lịc sử Hôn Nhân Công Giáo, biên soạn theo Joseph Martos, Doors to the Sacred do Doubleday xuất bản năm 1981, http://www.gpnt.net/diendan/archive/index.php/t-4437.html. [2] Đức Lêô XIII, Thông điệp về hôn nhân Kitô giáo “Arcanum divinae sapientiae” (1880), DH 3142 – 3146. Trích từ tác phẩm Sakramentenlehre, trong bộ Texte zur Theologie của Guenter Koch, NXBStyria, Graz, Wien, Koeln 1991, bàn việt ngữ: Bí Tích Học qua các tác giả, do cha Nguyễn văn Hòa OP chuyển ngữ, tr. 657. [3] Đức Piô XI, Thông điệp về hôn nhân Kitô giáo “Casti connubii” (1930), DH 3700 – 3714, Trích từ tác phẩm Sakramentenlehre, trong bộ Texte zur Theologie của Guenter Koch, NXBStyria, Graz, Wien, Koeln 1991, bàn việt ngữ: Bí Tích Học qua các tác giả, do cha Nguyễn văn Hòa OP chuyển ngữ, tr.662. [4]José María Castillo, Thần học về Bí Tích Hôn Phối – Một quá trình lịch sử phức tạp, do Felipe Gómez Ngô Minh chuyển Việt ngữ, in trong Tuyển Tập Thần Học số 17, http://www.htth.org/so17/thhonphoịhtml. [5] Vũ văn An, Lịch sử Hôn Nhân Công Giáo, biên soạn theo Joseph Martos, Doors to the Sacred do Doubleday xuất bản năm 1981, http://www.gpnt.net/diendan/archive/index.php/t-4437.html. [6] Đức Lêô XIII, Thông điệp về hôn nhân Kitô giáo “Arcanum divinae sapientiae” (1880), DH 3142 – 3146. Trích từ tác phẩm Sakramentenlehre, trong bộ Texte zur Theologie của Guenter Koch, NXBStyria, Graz, Wien, Koeln 1991, bàn việt ngữ: Bí Tích Học qua các tác giả, do cha Nguyễn văn Hòa OP chuyển ngữ, tr. 658 – 659. [7] X. Công đồng Tridentinô, Giáo lý về Bí tích Hôn phối (khóa 24, 1563) DH 1798 – 1812, số 839. [8] Đức Piô XI, Thông điệp về hôn nhân Kitô giáo “Casti connubii” (1930), DH 3700 – 3714, Trích từ tác phẩm Sakramentenlehre, trong bộ Texte zur Theologie của Guenter Koch, NXBStyria, Graz, Wien, Koeln 1991, bàn việt ngữ: Bí Tích Học qua các tác giả, do cha Nguyễn văn Hòa OP chuyển ngữ, tr.662 -663 [9] X. Giáo luật, điều 1056. [10] José María Castillo, Thần học về Bí Tích Hôn Phối – Một quá trình lịch sử phức tạp, do Felipe Gómez Ngô Minh chuyển Việt ngữ, in trong Tuyển Tập Thần Học số 17, http://www.htth.org/so17/thhonphoịhtml. [11] X. Giaó luật điều 1057 § 2. [12] José María Castillo, Thần học về Bí Tích Hôn Phối – Một quá trình lịch sử phức tạp, do Felipe Gómez Ngô Minh chuyển Việt ngữ, in trong Tuyển Tập Thần Học số 17, http://www.htth.org/so17/thhonphoịhtml. |
|
HÔN NHÂN VÀ BÍ TÍCH
Hôn nhân là hình thức chung sống suốt đời giữa một người nam và một người nữ trên căn bản tình yêụ Cả hai chấp nhận hình thức này, để dễ dàng cho đi và nhận lãnh tình yêu, giúp nhau vui sống trong mọi hoàn cảnh cuộc đờị Trong hôn nhân, cả hai cùng cộng tác tích cực vào sứ mạng sáng tạo của Tạo Hóa trong việc sinh sản con cái là kết quả của tình yêu hai người, đồng thời giúp nhau chu toàn trách nhiệm quốc gia và Giáo Hội (GH) trao phó trong việc nuôi dưỡng và giáo dục con cáị
Có thể nói, hôn nhân là thể chế cổ kính nhất trong nền văn hóa nhân loạị
Xưa như trái đất nhưng vẫn mới như mặt trờị Mới mỗi ngày. Hôn nhân không phải là "sản phẩm" của riêng Kitô giáo mà là di sản của toàn thể nhân loại! Trong cuốn Giáo Lý Công Giáo (GLCG) ban hành ngày 11. 10. 1992, GH đã khẳng định: Hôn nhân nằm ngay trong bản tính tự nhiên của con người (1603).
Kinh Thánh cũng bắt đầu bằng việc sáng tạo một người nam và một người nữ (St 1) và kết thúc bằng một tiệc cưới Chiên Con (Kh 19, 7. 9). Như thế có thể nói, từ trang đầu tới trang cuối, Kinh Thánh vừa đề cập tới hôn nhân
và con người vừa đề cập tới mầu nhiệm tình yêu và hạnh phúc của loài ngườị
1. Hôn nhân thời Cựu ước
Những trang đầu Kinh Thánh đã ghi lại 2 bài tường thuật về sự sáng tạo con người (St 1, 1 - 2, 4 và 2, 4b - 3, 24). Tuy bài thứ hai (2, 4b - 3, 24) cổ kính hơn bài thứ nhất (1, 1 - 2, 4) nhưng cả hai đều tường thuật một chi tiết giống nhau: Ban đầu Thiên Chúa đã sáng tạo loài người không gồm hai người nam hoặc hai người nữ, mà gồm một người nam và một người nữ. Để làm gì? Thưa, để họ chung sống với nhau mà cộng tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo liên tục của Ngài (St 1, 27t; 2, 18-24; xx. thêm: Tb 8, 5-9). Như thế, hôn nhân đã nằm ngay trong ý định sáng tạo nguyên sơ của Thiên Chúạ
Đối với người Do Thái, hôn nhân không phải là chuyện riêng tư của hai người nhưng là việc chung của cả giòng họ. Vì thế, quyền xếp đặt việc hôn nhân thường dành cho gia trưởng (Xh 22, 15t; Đnl 7, 3). Cha chàng rể chỉ cần nói chuyện với cha nàng dâu (St 24, 2-61; 34, 1-24; 38, 6; Tl 14, 2t), nhưng cũng có những trường hợp chàng rể đã tự quyết định lấy (St 26, 34t; 28, 8t; 29, 14-30; 38, 1-5; Hc 26, 19t) hoặc nàng dâu đã dành quyền quyết định tối hậu trong việc này (St 24, 5. 8. 58). Sau khi nhà trai nộp tiền cheo (mohar), nàng dâu mới chính thức trở thành người vợ trước pháp luật. Số tiền này không thể coi là giá cả mua bán nàng dâu, nhưng đúng ra là bảo chứng trước pháp luật khi thành hôn, đồng thời có thể coi là quỹ "bảo hiểm" cho nàng, nếu không may về sau nàng bị góa chồng quá sớm. Đám cưới của người Do Thái xưa được cử hành suốt 7 hoặc 14 ngày liền (xx. St 29, 27; Tl 14, 12; Tb 8, 18t) với con số thực khách rất đông (St 29, 22).
Dù sách Tobia có nhắc tới một thứ hôn ước chính thức, được ghi trên giấy trắng mực đen (7, 14), nhưng trong Cựu ước chưa thấy có một nghi thức rõ ràng nào để chứng hôn. Hôn nhân thời đó chưa thể coi là Bí tích được, dù Cựu ước cũng đã công nhận tính cách thánh thiện của hôn nhân. Hôn ước thời đó chỉ có tính cách dân luật, nhằm bảo vệ giềng mối gia đình.
2. Hôn nhân thời Giáo Hội sơ khai
Ngay từ thời GH sơ khai, các tín hữu đã xác tín rằng: Hôn nhân là việc thánh thiện, cần phải được cử hành trước mặt Chúa và GH. Trong GH cũng bắt đầu manh nha những hình thức chứng hôn tại địa phương. GH yêu cầu các tín hữu khi thành hôn, "xin thông báo cho Giám Mục biết", để "làm theo thánh ý Chúa" và "làm vinh danh Ngài" (Ignatios, Epistula ad Smyrnaeos 8, 1 và Epistula ad Polycarpum 5, 2; xem thêm: Tertullian, Ad ux. 2, 9; Ambrosius, Ep. 19, 7). Các Giáo Phụ thường hiểu việc Chúa Giêsu đến dự tiệc cưới tại thành Cana như là việc Ngài công khai "hợp thức hóa" hôn nhân loài ngườị Trong GH Tây Phương hồi thế kỷ thứ 5, đôi tân hôn có thể mời Giám Mục tới thẳng phòng tiệc cưới, để chúc lành cho hôn ước của mình. Còn bên GH Đông Phương, việc này đã được thực hành sau thời Hoàng Đế Constantinô, nghiã là sớm hơn một thế kỷ. Sau này, đối với những quốc gia tại Đông Phương đã nhận Kitô giáo làm quốc giáo, nghi thức Linh mục đội triều thiên cho đôi tân hôn trở thành không thể thiếu trong việc kết hôn. Ai kết hôn không có nghi thức này, hôn phối của họ sẽ bị coi là bất thành phép trước mặt GH.
Tới thế kỷ thứ 8, GH Tây Phương còn thực hành thêm việc khảo hạch trước khi cử hành Bí tích Hôn Phối cho đôi tân hôn. Vào thế kỷ 15, sau khi hai người công bố việc ưng thuận kết hôn, Linh mục còn chính thức xác nhận hôn ước đó bằng việc đọc thêm công thức: "Ego coniungo vos in matri- monium. In nomine Patris..." (Tôi kết hợp anh chị trong hôn nhân. Nhân danh Chẫ.) (Martène R II 367t: Ordo VII matr.). Sau này, nghi thức đó còn được công nhận và in lại trong sách nghi lễ Roma (Rituale Romanum).
Nhưng khoa Thần Học và Giáo Luật thời thế kỷ thứ 11 chủ trương rằng: Để hôn phối thành phép, chỉ cần sự ưng thuận (solus consensus) kết hôn của hai người là đủ. Hậu quả của học thuyết này là việc coi thường các nghi thức kết hôn, bên đời cũng như bên đạọ Để ngăn ngừa nguy hiểm đó, Công đồng Trento đã ra sắc lệnh "Tametsi" ngày 11. 11. 1563 nhằm canh tân hôn phối, bằng các biện pháp cụ thể sau đây: (1) Rao hôn phối 3 lần liên tiếp trong các ngày lễ lớn, (2) hôn phối phải cử hành theo nghi thức cố định và công khai trước mặt một Linh mục và 2, 3 nhân chứng. Những hôn phối nào không cử hành theo thể thức này, đều bị coi là bất hợp pháp và bất thành phép (DZ 1814-1816). Nghi thức hôn phối lúc đó đã gồm 3 yếu tố căn bản như ngày nay:
(1) Hai người công bố sự ưng thuận kết hôn với nhau trước mặt vị đại diệnGH và các nhân chứng.
(2) Vị đại diện xác nhận sự ưng thuận của hai ngườị
(3) Vị đại diện chúc lành cho hôn ước đó.
3. Hôn nhân là một công ích
Có người vẫn thắc mắc: Hôn nhân là "chuyện riêng tư" của hai người, tại sao GH phải "xía" vô? Thưa, hôn nhân không phải là chuyện riêng tư giữa loài người, mà là chuyện liên quan đến cả Thiên Chúạ Hôn nhân nằm trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa ngay từ khi tạo thành vũ trụ. Như thế, GH lưu tâm tới hôn nhân như là lưu tâm tới chương trình của Thiên Chúạ Hôn nhân cũng không phải là chuyện riêng tư giữa hai người, mà là chuyện liên quan đến nhiều người: cả giòng họ, cả xã hội và GH. Hôn nhân có liên quan tới nhiều người, vì hôn nhân không phải chỉ liên quan tới hạnh phúc của hai người, mà còn liên quan tới hạnh phúc của cả xã hội và GH. Công đồng Vatican II đã minh định: "Hạnh phúc của một người, cũng như hạnh phúc của xã hội và GH, có liên quan mật thiết với hạnh phúc trong cuộc sống hôn nhân và đời sống gia đình" (Gaudium et Spes 47, 2). Như thế, GH chăm sóc hạnh phúc hôn nhân như là chăm sóc hạnh phúc xã hội cũng như hạnh phúc của chính GH.
Có lẽ chính trong ý nghiã đó, mà GLCG đã xếp Bí tích Hôn Phối (1601- 1666) vào loại "những Bí tích phục vụ đời sống chung" (les sacrements du service de la communion) cùng một loại với Bí tích Truyền Chức (1536-1600)! Tóm lại, hôn nhân là một công ích, không phải chỉ có ích cho hai người và vì thế cũng không thể "dàn xếp âm thầm" giữa hai người yêu nhaụ
4. Hôn nhân là một mầu nhiệm
Hầu hết các dân tộc đều tin rằng: Thần Thánh "nhúng tay" vào việc hôn nhân của loài người hoặc coi hôn nhân là việc thiên duyên tiền định. Người Việt xưa cũng tin, vợ chồng nên duyên được là nhờ "ông Tơ bà Nguyệt". Niềm tin đó dựa trên điển tích "Nguyệt hạ lão nhân" (ông già ngồi dưới bóng trăng, thường được gọi là ông Tơ, vị tiên chuyên lo xe duyên cho loài người). Điển tích ấy kể rằng: Vi Cố, vào một đêm đi chơi, chàng gặp một cụ già ngồi dưới bóng trăng trong, trong tay cụ có một cuốn sổ và một bó chỉ hồng. Vi Cố gạn hỏi, cụ mới tiết lộ: "Ta là Nguyệt Lão, cuốn sổ này để ghi tên những cặp trai gái sẽ lấy nhau, còn chỉ hồng này dùng để cột chân họ lại, để nên duyên vợ chồng." Nghe thế, Vi Cố tò mò cũng muốn biết xem sau này mình sẽ lấy aị Nguyệt Lão chiều lòng cho biết, sau này chàng sẽ lấy cô nàng ăn xin trước chợ. Vi Cố tin lời, sợ mất danh giá về saụ Để trừ hậu họa, một ngày kia chàng xách dao ra chợ, "hỏi thăm sức khoẻ" cô nàng. Vừa tới nơi, chàng chém vội một cú. Thấy máu chảy đầm đìa, hoảng sợ chàng chạy trốn. May phước, nhờ thế nàng thoát nạn. Sau này, Vi Cố cưới được một tiểu thư, con của vị quan trong miền, chàng yên trí. Nhưng khi thấy vết sẹo trên đầu vợ, chàng hỏi ra mới biết tiểu thư ngày nay chính là cô nàng ăn xin ngày trước. Nàng đã được quan ông trong miền nhận về làm con nuôị
Như thế, hôn nhân không phải là việc phàm tục giữa hai người yêu nhau, nhưng là việc linh thiêng giữa Thần Linh và loài ngườị Ngài yêu họ nên "mai mối" cho họ và dàn xếp cho họ tìm được hạnh phúc bên nhaụ
Trong Kinh Thánh, bài tường thuật thứ 2 về sự sáng tạo cũng cho thấy, Thiên Chúa đã can thiệp trực tiếp vào việc này bằng cách cho Adam ngủ say, rồi lấy xương sườn của chàng mà dựng nên Evà (St 2, 21). Chữ "ngủ say" trong nguyên ngữ Do Thái "tardemáh" có ý diễn tả "mầu nhiệm không hiểu nổi" này đối với nhân loạị
Thư Thánh Phaolô cũng coi sự kết hợp giữa người nam và người nữ như một "mầu nhiệm" [mystérion] (Ep 5, 32) vì hôn nhân của loài người là hình ảnh của sự kết hợp giữa Chúa Kitô và GH (Ep 5, 23-27. 29-32).
H. Rahner còn gọi hôn nhân là "mầu nhiệm triệt cùng" (mysterium radicale) của nhiệm thể Chúa Kitô, vì khi sinh ra bởi một cuộc hôn nhân nào đó, con người cũng có "họ hàng máu mủ" với Thiên Chúa qua Đức Kitô, là Đấng đã xuống thế làm người và ở giữa loài ngườị
5. Hôn nhân là một Bí tích
Trong các nền văn hóa khác nhau, hôn nhân luôn được coi là việc thánh thiện. Vì thế, trước khi về chung sống với nhau, cô dâu chú rể thường xin Thần Linh của mình chứng giám cho tình yêu và phù hộ cho cuộc sống chung giữa hai người qua một nghi lễ công khai và long trọng. Trong hầu hết các tôn giáo, hôn nhân cũng được coi là hình thức sống chung hợp với ý Thượng Đế. Trong Cựu ước, giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài thường được ví như một cuộc hôn nhân giữa hai người (Hs 1-3; Is 54; 62; Gr 2-3; 31; Ed 16; 23). Còn trong Tân ước, hôn nhân được coi là hình ảnh sự kết hợp giữa Chúa Kitô và GH (Ep 5, 22-33). Chúa Kitô được ví như chàng rể của giao ước mới (Mc 2, 19). Còn GH được ví như nàng dâu, đã được Chúa Kitô yêu thương đến hy sinh mạng sống (Ep 5, 25). Chính Chúa Giêsu cũng minh định công khai: Hôn nhân hợp với thánh ý Thiên Chúa (Mt 19, 6).
Đối với GH, hôn nhân không phải chỉ là một khế ước giữa người với người mà còn là một Bí tích (Sakrament/ sacrement) giữa Thiên Chúa và loài ngườị Thánh Gioan Kim Khẩu cho rằng: "Hôn nhân là Bí tích tình yêữ. Khi vợ chồng nên một trong hôn nhân, cả hai không còn là hình ảnh dưới trần nữa, mà là hình ảnh của Chúa trên trờị"
Nhưng, Bí tích là gì? - Thưa, Bí tích là dấu thánh (heiliges Zeichen) bề ngoài do Chúa Giêsu đã lập, để thông truyền ơn phúc bên trong.
Dấu thánh bề ngoài trong Bí tích Hôn Phối là: (1) sự ưng thuận thành hôn của hai người và (2) việc công khai hóa sự ưng thuận đó trước mặt đại diện GH và các chứng nhân. Bí tích này do Chúa Giêsu đã lập, khi Ngài thiết lập Giao ước mới như là dấu chỉ muôn đời của ân sủng. Ngoài ra, tự bản chất không một Bí tích nào có liên hệ với thực tại tự nhiên cho bằng Bí tích Hôn Phốị
Có thể nói, Thiên Chúa đã thiết lập khế ước hôn nhân ngay trong vườn địa đàng, giữa người nam và người nữ đầu tiên. Nhưng Chúa Giêsu mới nâng hôn ước đó lên hàng Bí tích.
Ngay trong trật tự sáng tạo, Thiên Chúa đã sáng tạo người nam và người nữ theo hình ảnh Ngài (St 1, 27), mà Ngài là tình yêu (1 Ga 4, 8. 16). Cho nên, loài người được sáng tạo theo mẫu mực của tình yêụ Ngài đã chúc lành cho họ và cầu mong họ sinh sản thêm nhiều con cái, để tiếp tục cộng tác trực tiếp trong việc sáng tạo mà Ngài đã khởi đầu (St 1, 28). Chính Thiên Chúa đã kết luận: "Đó là việc rất tốt" (St 1, 31).
Còn đối với Chúa Giêsu, ngay khi bắt đầu đời sống công khai, Ngài đã có mặtb trong một tiệc cưới tại Canạ Ngài làm dấu lạ đầu tiên biến nước thành rượu để giúp hai họ nối tiếp cuộc vui (Ga 2, 1-11). GH luôn hiểu sự hiện diện này như là một chứng thực của Chúa Kitô đối với giá trị hôn nhân, đồng thời cũng tiên báo sự hiện diện thường xuyên của Ngài trong đời sống hôn nhân (GLCG, 1613).
Dù sống độc thân, nhưng Chúa Giêsu cũng dạy rằng: Hôn nhân là một cuộc sống chung giữa người nam và người nữ, được Thiên Chúa thiết lập ngay từ khi tạo dựng vũ trụ. Ngài còn tranh đấu quyết liệt, để trả lại cho hôn nhân ý nghiã nguyên thủy mà Thiên Chúa đã minh định từ đầu, đó là sự hợp nhất bất khả phân ly giữa người nam và người nữ (Mc 10, 6-9; Mt 19, 4tt).
Ngay từ thời GH sơ khai, Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu là hãy cưới nhau "trong Chúa" (1 Cr 7, 39).Giáo lý Bí tích của hôn phối được xây dựng trên nền tảng Kinh Thánh, nhưng phần cô đọng nhất phải kể đến đoạn 5, 22-33 thuộc thư gởi tín hữu Ephêsô. Trong phần này, tác giả đã so sánh sự kết hợp giữa vợ chồng với sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Như thế, sự kết hợp trong đời sống hôn nhân là hình ảnh của sự kết hợp với Thiên Chúa, và sự hiến thân toàn vẹn cũng được coi là mục tiêu và nền tảng của đời sống hôn nhân. Sự hy sinh của vợ chồng dành cho nhau là hình ảnh sự hy sinh của Chúa dành cho GH. Tình yêu của vợ chồng dành cho nhau cũng là hình ảnh tình yêu của Chúa dành cho GH. Rõ ràng nhất là khi tác giả xác tín: "Mầu nhiệm (Mysterium, Sacramentum) đó thật vĩ đạị Tôi có ý ám chỉ Chúa Kitô và GH Ngài" (5, 32).
Giáo huấn này được hình thành dần dần trong những thế kỷ 11 - 13, rồi được phán quyết bởi nhiều Công đồng và tái khẳng định qua nhiều thời đại Giáo hoàng khác nhaụ Công đồng Lateran II (1139) đã xếp Bí tích Hôn Phối chung với các Bí tích Thánh Thể, Thánh Tẩy và Truyền Chức (D 367). Đến thời Công nghị Verona (1184), hôn nhân chính thức được gọi là Bí tích (D 406, 424, 465, 702). Rồi trong sắc lệnh "Exultate Deo" (22. 11. 1439), Công đồng Firenze đã gọi Bí tích này là Bí tích thứ bẩy của GH. (DZ 1327; NR 730). Công đồng Trento, trong khóa họp ngày 11. 11. 1563 xác tín thêm rằng: Chính Chúa Giêsu đã thiết lập và hoàn thành Bí tích này (DZ 1799; NR 733). Sau này, trong các thông điệp "Arcanum divinae sapientiae" (10. 02. 1880) của ĐGH Lêo XII và "Casti connubii" (31. 12. 1930) của ĐGH Piô XI, giáo huấn này còn được tái khẳng định thêm một lần nữa (DZ 3142; NR 747; DZ 3700; NR 751). Công đồng Vatincan II đi xa hơn, khi xác quyết: "Trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con cái, vợ chồng sẽ giúp nhau nên thánh (!) (Lumen Gentium, số 11). Như thế, hôn nhân vừa là một Bí tích vừa là một ơn gọi để nên thánh.
"Hôn nhân là một Bí tích" thường được hiểu theo 2 nghiã sau đây: (1) Khi hai người yêu nhau muốn được Thiên Chúa chúc phúc cho họ, thì Bí tích hai người ban cho nhau, cũng sẽ đem lại cho họ ân sủng và phúc lành của Chúạ (2) Đối với người Công Giáo, hôn nhân còn là môi trường giúp cho họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể qua tình yêu của người yêụ Nói cách khác, trong tình yêu hôn nhân họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể: Họ dễ dàng xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương họ tha thiết trong vòng tay của người yêụ Tình yêu trong hôn nhân như thế chính là hình ảnh tình yêu của Chúa dành cho con ngườị Công đồng Vatican II cũng xác quyết: "Tình yêu chân chính của hai người được thông phần vào tình yêu của Thiên Chúa" (Gaudium et Spes, số 48, 2).
Bí tích đó không phải chỉ được cử hành một lần trong Phụng vụ, mà cần phải được cử hành mỗi ngày một cách cụ thể trong đời sống thường ngày bằng cách tận hiến cho Chúa và hy sinh cho nhaụ Như thế, Bí tích Hôn Phối là một phần thuộc thực tại cứu độ bao la của Thiên Chúa dành cho loài người qua sự tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, Con yêu dấu của Ngàị
Nên biết, hôn phối chỉ có giá trị là Bí tích đối với hai người đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy (Rửa Tội) theo nghi thức Kitô giáo (mà không nhất thiết phải là nghi thức Công giáo) trước khi lãnh nhận Bí tích Hôn phốị Nếu một trong hai người, cho tới khi lãnh nhận Bí tích Hôn Phối vẫn chưa lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, hôn phối họ lãnh nhận chỉ là hôn phối tự nhiên (Naturehe) - (xx. LThK VIII, cột 1206). Vì trong Bí tích Hôn Phối, khi đã thành phép thì cũng thành phép cho cả hai người, mà không có chuyện một người thành phép, một người không. Cũng thế, khi đã có giá trị Bí tích thì cũng có giá trị cho cả hai ngườị Không có chuyện chỉ giá trị với người này mà không có giá trị với người kiạ Bí tích Thánh Tẩy chính là điều kiện căn bản để lãnh nhận các Bí tích khác được thành phép.
Tuy nhiên, nếu sau này người thứ hai xin lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, thì Hôn Phối mà hai người đã lãnh nhận trước sẽ đương nhiên trở thành Hôn Phối có Bí tích. Điều này cũng có giá trị đối với các hôn phối tự nhiên khác, khi hai người đều lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy sau khi cướị
Đối với GH Công Giáo và Chính Thống, hôn nhân là một Bí tích. Trái lại, đối với GH Anh giáo và GH Tin Lành, hôn nhân không phải là một Bí tích. Martin Luther coi hôn nhân chỉ là "việc đời" mà thôi (nguyên văn: einaeusserlich-weltlich Ding). Các nhà cải cách khác như Melanchthon, Zwingli, Calvin, Brenz, Bucer, Bugenhagen cũng cùng một lập trường với Luther.
6. Nghi thức kết hôn trong Giáo Hội
Những nghi thức kết hôn trong GH từ trước tới nay thực ra đều là những hình thức đã có sẵn trong dân luật, trong các nền văn hóa cổ xưa và trong các tôn giáo khác nhaụ Hình thức nào thích hợp đều được GH "rửa tội" lại và biến thành nghi thức Phụng vụ của mình. Đó là một tiến trình lâu dàị Mãi tới thời Trung cổ, GH mới có những nghi thức nhất định và công khai trong việc này.
Hình thức chính thức để cử hành Hôn phối (Forma celebrationis matrimonii: Formpflicht) cách thành phép và hợp pháp trong GH Công giáo là hai người phải kết hôn trước mặt Giám mục hoặc Cha sở địa phương, hoặc một Linh mục, một Phó tế nào đó đã được ủy nhiệm (hoặc một giáo dân được ủy nhiệm trong trường hợp thiếu những vị nói trên, xin xem: CIC 1112) cùng với hai nhân chứng.
GH công khai hóa Bí tích Hôn Phối như trên, vì những lý do sau đây:
a) Bí tích Hôn Phối là một nghi thức Phụng vụ của GH.
b) Sau khi lãnh nhận Bí tích Hôn Phối, hai người đều có bổn phận và quyền lợi đối với nhau, cũng như đối với con cái sẽ sinh rạ
c) Sau khi thành hôn, quyền lợi và bổn phận đó cần được bảo đảm lâu dài, nên cần có thêm sự hiện diện của hai nhân chứng.
d) Khi đã chấp nhận công khai hóa như thế, hai người sẽ dễ dàng trung thành với nhau hơn.
Đó là nghi thức công khai và chính thức được áp dụng trong các trường hợp chung. Trong những trường hợp riêng (CIC 1116; 1127, 2-3), dĩ nhiên GH có thể chuẩn chước hình thức kết hôn này. Ngoài ra, Công đồng Vatican II còn cho phép GH địa phương được nghiên cứu và thí nghiệm những nghi thức đặc thù, hợp với tinh thần, phong tục, văn hóa địa phương. Điều cần duy trì trong các nghi thức địa phương này là Linh mục phải chủ tọa lễ nghi Hôn Phối đó (De Sacra Liturgia, số 77).
Vì mọi Bí tích đều liên quan trực tiếp tới Bí tích Thánh Thể, nên Bí tích Hôn Phối cũng thường được cử hành chung với Bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ của một Thánh Lễ. GH ấn định phải cử hành Bí tích này sau bài Phúc Âm, bài giảng và trước phần Lời nguyện giáo dân trong Thánh Lễ (Sacrosanctum Concilium, số 61 và 78). Hiến chế này cũng tiên liệu những trường hợp có thể cử hành Bí tích Hôn Phối ngoài Thánh Lễ, dưới hình thức một buổi Phụng vụ Lời Chúa, nhất là trong những trường hợp hôn phối (tạm dịch là) dị tín (mariage mixte, konfessionsverschiedene Ehe) hoặc dị giáo (disparité de culte, religionsverschiedene Ehe). Hôn nhân được gọi là dị tín, khi một người Công giáo lấy một người đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy trong GH của họ, nhưng không phải là Công giáo, thí dụ: một người Tin lành, một người Chính thống (orthodoxe)... Hôn nhân được gọi là dị giáo, khi một người Công giáo lấy một người chưa lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, thí dụ: một người Do thái giáo, một người Hồi giáo, một người Ấn độ giáo, một người Phật giáỗ. Trong trường hợp dị tín, nếu muốn cử hành Bí tích Hôn Phối trong khuôn khổ một Thánh lễ, cần có phép của Giám mục (xx. Ordo celebrandi matrimonium). Trong trường hợp dị giáo, thường không được phép cử hành Hôn phối trong một Thánh lễ, tuy nhiên còn tùy luật riêng của từng Giáo phận địa phương.
Khi thấy cần cử hành Hôn Phối ngoài khuôn khổ của một Thánh Lễ, xin đừng coi đó là "Hôn Phối hạng hai" hoặc chỉ là "Phép giao" như nhiều người lầm tưởng. Trước khi cử hành Hôn Phối, hai người và họ hàng nên bàn hỏi với Linh mục hữu trách, để cùng quyết định chọn một hình thức sao cho hợp tình hợp lý với cả hai bên, nhất là trong trường hợp hôn phối với người khác đạọ Bí tích Hôn Phối là một nghi thức Phụng vụ, đòi hỏi sự xác tín và chân thành bề trong, không phải là một hình thức "phong tục" cần có, để làm tăng thêm vẻ long trọng bề ngoài hoặc chỉ cần "dàn cảnh" sao cho đẹp, nhằm ghi lại những lưu ảnh của một ngày vuị
7. Thừa tác viên của Bí tích Hôn Phối
Trong Cựu ước, người cha trong gia đình thường đứng ra để chúc hôn cho hai con trong ngày họ thành hôn (Tb 7, 12t). Còn trong Bí tích Hôn Phối, ai là người đứng ra để ban Bí tích cho họ? - Thưa, là chính đương sự, là chính hai người đó! Họ là người chính thức có quyền ban Bí tích đó cho nhau, mà không phải là một vị đại diện GH như Giám mục, Linh mục hay Phó tế. Nói cách khác, họ là Thừa tác viên của Bí tích mà họ sẽ cùng nhau lãnh nhận trước mặt Chúa và trước mặt GH (GLCG, 1623). Đó là điểm đặc biệt của Bí tích Hôn Phối, khác hẳn với các Bí tích khác. Đó cũng là điểm khác biệt giữa GH Tây Phương và GH Đông Phương. Đối với GH Đông Phương, Giám Mục và Linh mục mới là Thừa tác viên chính thức của Bí tích này.
Đối với GH Công giáo, vị đại diện không phải là Thừa tác viên của Bí tích này nhưng chỉ đại diện cho 3 "pháp nhân" cùng một lúc: đại diện Chúa để chúc lành cho hôn ước; đại diện GH để chúc mừng đôi tân hôn; đại diện xã hội để làm chứng nhân cho hôn ước đã được ký kết giữa hai ngườị Ngoài ra, sự hiện diện của vị này cùng với hai nhân chứng còn nhằm diễn tả 3 ý nghiã sau đây: (1) Hôn nhân không phải là chuyện riêng tư của hai họ, nhưng là nghi thức Phụng vụ chung của GH; (2) Hôn nhân không phải là chuyện riêng tư của hai người, nhưng là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa dành cho họ; (3) Nói lên sự lưu tâm của GH đối với hạnh phúc của hai ngườị Tóm lại, GH muốn đóng vai trò chứng nhân, để công nhận hôn ước, bảo vệ hạnh phúc và nâng đỡ hai người trên đường đờị
8. Ân sủng của Bí tích Hôn Phối
Đời sống hôn nhân có thể coi là ơn thiên triệu, vì trong hôn nhân hai người đều được Chúa kêu gọi cộng tác trực tiếp vào chương trình sáng tạo và cứu độ nhân loạị Vì thế, trong Bí tích dẫn vào đời sống hôn nhân, Chúa là nguồn gốc mọi ân sủng, sẽ thông ban cho hai người những ơn cần thiết để họ chu toàn sứ mệnh Ngài trao phó. Ngoài những ơn thánh hóa, giúp họ sống xứng đáng là con cái Chúa trong đời sống hôn nhân và trợ giúp họ "san sẻ gánh nặng cho nhau" (Gl 6, 2), nghiã là giúp họ chia sẻ vui buồn, hạnh phúc cũng như đau khổ, thành công cũng như thất bại, hy vọng cũng như thất vọng, an vui cũng như lo lắng... trong đời sống chung, Chúa còn ban cho họ một ơn cao trọng khác: Đó là ơn được tham dự cách đặc biệt vào sự hiệp thông giữa Chúa Kitô và GH Ngài (Ep 5, 21-33). Trong sự hiệp thông này, tình yêu của họ không còn là tình yêu giữa hai người, mà là tình yêu giữa ba người: Chúa hiện diện giữa họ. Tình yêu của họ không phải chỉ là tình tự nhiên mà còn là tình siêu nhiên: Yêu nhau như Chúa Kitô đã yêu GH (Ep 5, 25). Nghiã là qua Bí tích Hôn Phối, Chúa đã thánh hóa tình yêu của hai người dưới ba khiá cạnh sau đây:
(1) Tình yêu và lòng trung thành của họ là hình ảnh tình yêu và lòng trung thành của Chúa đối với dân Ngàị Tình yêu của họ được hiệp thông với tình yêu Thiên Chúạ
(2) Tình yêu đó giúp họ nên thánh trong đời sống hôn nhân và chu toàn sứ mệnh dưỡng dục con cáị
(3) Tình yêu đó là hình ảnh của tiệc cưới Chiên Con, là hình ảnh hạnh phúc, là hình ảnh an vui, là hình ảnh của tất cả các thực tại hoàn hảo nơi tình yêu Thiên Chúạ
Như thế, chắc chắn hạnh phúc của họ sẽ được bảo đảm, tương lai con cháu họ sẽ được bảo đảm, không do một hãng bảo hiểm nhưng là do chính Thiên Chúạ Vì lúc nào Chúa cũng bên họ: "Thầy sẽ ở lại với các con, mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20).
9. Những điều kiện để lãnh nhận Bí tích Hôn Phối
Để lãnh nhận Bí tích Hôn Phối cách thành phép (gueltig: valide), hai người cần hội đủ ba điều kiện căn bản sau đây:
(1) Cả hai đều có khả năng về thể lý và tâm lý, để sống đời hôn nhân.
(2) Họ phải công khai hóa sự ưng thuận lấy nhau làm vợ làm chồng (causa efficiens).
(3) Họ đã cử hành Bí tích Hôn Phối theo nghi thức của GH.
Nếu thiếu một trong ba điều kiện trên đây, Bí tích Hôn Phối dù đã lãnh nhận vẫn bị GH coi là bất thành phép (ungueltig: invalide). Trong ba điều kiện nêu trên, điều kiện thứ nhất khá phức tạp, xin mạn phép giải thích thêm như sau:
a) Hai người đó phải gồm 1 người nam và 1 người nữ. Cả hai đều là người Công giáọ Đó là trường hợp bình thường. Trường hợp ngoại thường, cần xin phép (Erlaubnis: permission) nếu là hôn nhân dị tín hoặc xin chuẩn (Dispens: dispense) nếu là hôn nhân dị giáo (xx. thêm số 11: Hôn nhân khác đạo).
b) Hai người phải hoàn toàn tự do: Tự do được hiểu theo hai nghiã sau đây:
(1) Không bị ép buộc bởi bất cứ ai, hoặc bởi bất cứ điều gì (thí dụ: sợ hãi);
(2) Không bị cản trở bởi Giáo luật hoặc luật tự nhiên.
c) Hai người phải có ý hướng kết hôn thật tình: Nghiã là, họ thực lòng muốn lấy nhau làm vợ làm chồng, muốn chung sống với nhau, để hưởng quyền lợi cũng như giúp nhau chu toàn bổn phận trong đời sống hôn nhân. Ý hướng đó cần phải được công khai hóa qua lời hôn ước: "Tôi là... nhận em/ anh... làm vợ/ chồng..." Đây là yếu tố nền tảng để xây dựng hôn nhân và cũng là yếu tố nền tảng để lãnh nhận Bí tích Hôn Phốị Vì thế, nếu thiếu ý hướng này, Bí tích Hôn Phối không thể thành phép được.
Dựa trên yếu tố nền tảng trên, những trường hợp sau đây có thể coi là thiếu ý hướng kết hôn thật lòng:
(1) Những người mắc tâm bệnh, không còn sử dụng được lý trí của mình nữạ
(2) Những người thiếu khả năng suy nghĩ và phán đoán, không còn biết đến quyền lợi cũng như trách nhiệm của hôn nhân.
(3) Những người bất lực về tâm lý để sống đời hôn nhân. Thí dụ: đồng tình luyến ái hoặc cự tuyệt mọi chuyện liên quan tới tính dục...
(4) Do lầm lẫn: Lấy lầm người (personne) muốn lấy; kể cả khi lầm lẫn về phẩm chất (qualité) của người đó, nếu phẩm chất này được coi là yếu tố quyết định để thành hôn.
(5) Do gian lận: Chính đương sự hoặc người thứ ba đã gian lận hoặc che giấu sự thật để đạt mục đích kết hôn.
(6) Đóng kịch. Thí dụ: Thực tình không muốn thành vợ chồng, nhưng vẫn cưới, để hưởng quyền cư trú, di dân... hợp pháp do hôn thú đem lại; hoặc khi đương sự không chấp nhận hoàn toàn những yếu tính của hôn nhân (bất khả phân ly...)
(7) Đặt điều kiện rồi mới kết hôn. Thí dụ: đặt điều kiện chỉ lấy, nếu người đó là người dị tình luyến ái (hétérosexuel). Nhưng sau khi cưới, mới biết được họ là người đồng tình luyến ái (homosexuel).
(8) Bị áp lực hoặc do sợ hãi mà kết hôn.
Ai rơi vào một trong những trường hợp nêu trên, sẽ không thể lãnh nhận Bí tích Hôn Phối thành phép được. Mà dù có lãnh nhận, Bí tích đó vẫn vô hiệu và bất thành phép. Trong trường hợp này, ai đã lãnh nhận Bí tích Hôn Phối với người đó có thể xin tiêu hôn, để lãnh nhận Bí tích Hôn Phối thành phép với một người khác.
10. Những ngăn trở không thể lãnh nhận Bí tích Hôn Phối
Bí tích Hôn Phối không thể thành phép trong những trường hợp sau đây (CIC 1083-1094), nếu trước đó đương sự chưa được chuẩn chước (nhưng không luôn luôn có thể!). Đó thường là những ngăn trở theo luật Chúa cũng như luật tự nhiên:
(1) Dưới tuổi tối thiểu: trai 16, gái 14. - Có thể chuẩn, với điều kiện tâm sinh lý đã đủ để kết hôn. Tuy nhiên, Hội đồng Giám Mục địa phương có thể ấn định một mức tuổi cao hơn.
(2) Thiếu vĩnh viễn khả năng tình dục (impotentia coeundi). - Không thể chuẩn!
(3) Khi Bí tích Hôn Phối lãnh nhận trước đó vẫn còn hiệu lực. - Không thể chuẩn!
(4) Hai người theo hai tôn giáo khác nhau (disparitas cultus: dị giáo). - Toà Giám mục có thể chuẩn.
(5) Chức thánh (từ Phó tế trở lên, kể cả Phó tế vĩnh viễn, sau khi người vợ qua đời, ông cũng bị ngăn trở tái hôn). - Đức Thánh Cha có thể chuẩn cho chức Linh mục; Giám mục và Cha sở... có thể chuẩn cho chức Phó tế trong trường hợp nguy tử.
(6) Đã khấn trọn đời (vĩnh thệ) trong một dòng tụ - Tòa Thánh có thể chuẩn.
(7) Bắt cóc hoặc làm áp lực để cưỡng hôn.
(8) Khi một hoặc cả hai người trực tiếp hay gián tiếp âm mưu thủ tiêu chồng hoặc vợ của mình hoặc của người mình yêu, để rảnh rang kết hôn với họ.
(9) Họ máu:
(a) Theo hàng dọc: Ngăn trở không giới hạn: ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt..., dù là do ngoại hôn. - Không thể chuẩn!
(b) Theo hàng ngang: Ngăn trở trong vòng 4 đời theo giáo luật mới (1983). Nên biết: 4 đời theo giáo luật mới chỉ bằng 2 đời (Cousin - Cousine) theo giáo luật cũ (1917). Có sự khác biệt này, vì Giáo luật mới căn cứ theo cách tính của Roma và luật dân sự hiện hành, nghiã là kể cả họ hàng hai bên. Còn Giáo luật cũ lại theo cách tính của luật Nhật nhĩ man (germanisch- rechtlich). Đó cũng là cách tính thông thường trong gia phả Việt Nam. - Hai đời hàng ngang (anh chị em ruột) không thể chuẩn! Nhưng xa hơn, có thể chuẩn.
(10) Họ kết bạn: Họ kết bạn chỉ được tính giữa người chồng với người họ máu bên vợ; cũng như giữa người vợ với người họ máu bên chồng. Nếu vợ hoặc chồng của đương sự có họ với người đó bao nhiêu đời, thì đương sự cũng có họ với người ấy bấy nhiêu đờị Tuy nhiên, ngăn trở hôn phối này chỉ được tính theo hàng dọc. Thí dụ, khi bố chồng lấy nàng dâu, bố ghẻ lấy con ghẻ mới bị ngăn trở hôn phối - Có thể xin chuẩn.
(11) Vì thanh danh: Ngăn trở giữa đương sự với người có họ máu bên vợ hoặc bên chồng, mà đương sự đã cưới không thành phép. Thí dụ: Một ông Công giáo góa vợ, có một con traị Nếu ông về chung sống với một bà Công giáo ly dị, thì dù cả hai mới cưới nhau theo luật dân sự (dĩ nhiên không có Hôn Phối đạo!), nhưng giữa bà và cậu con trai của ông vẫn mắc ngăn trở hôn phối, nếu họ muốn lấy nhau theo phép đạọ Ngăn trở 1 đời hàng dọc. - Có thể xin chuẩn.
(12) Họ con nuôi: Bị ngăn trở theo hàng dọc và 2 đời theo hàng ngang. Thí dụ: Khi lấy người mà đương sự đã nhận làm con nuôi (họ hàng dọc) hoặc khi lấy anh chị em do cha mẹ của đương sự đã nhận về làm con nuôi (2 đời hàng ngang). - Có thể xin chuẩn.
Trong các thứ ngăn trở nêu trên, có thứ ngăn trở thường gặp - nhất là trong hoàn cảnh hiện nay - đó là ngăn trở thứ 4: ngăn trở dị giáọ Vì thế, xin mạn phép nói thêm trong phần dưới đây:
11. Hôn phối giữa những người không cùng một niềm tin
Giáo luật phân biệt: Hôn phối dị tín (konfessionsverschiedene Ehe) hay còn gọi là hôn phối hỗn hợp (mixta religio: mariage mixte) và hôn phối dị giáo (disparitas cultus: disparité de culte: religionsverschiedene Ehe). Hôn phối dị tín là hôn phối giữa một người Công giáo và một người không Công giáo, nhưng đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy (entre catholique et baptisé non catholique). Thí dụ: giữa một người Công giáo và một người Tin Lành hay Chính Thống... Còn hôn phối dị giáo là hôn phối giữa một người Công giáo và một người chưa được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy (entre catholique et non-baptisé). Thí dụ: giữa một người Công giáo và một người Do Thái giáo, Hồi giáo, Ấn độ giáo, Phật giáỗ.
Giáo luật ngày xưa còn phân biệt: Hôn phối Kitô giáo (matrimonium christianum) và hôn phối bán Kitô giáo (matrimonium semichristianum).
Như thế, sự phân biệt trên đây lấy Bí tích Thánh Tẩy làm nền tảng. Khi haingười đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, hôn phối của họ là hôn phối Kitô giáo, có Bí tích (sakramentale Ehe). Còn khi một trong hai người chưa lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, hôn phối của họ là hôn phối bán Kitô giáo, không có Bí tích (nichtsakramentale Ehe).
Cần phân biệt rõ ràng, để tránh những những hiểu lầm đáng tiếc trong thực tế.
Muốn cử hành hôn phối dị giáo, cần có phép chuẩn (Dispens: dispense) của Tòa Giám mục. Nếu không, Giáo luật (CIC 1086) sẽ coi hôn phối đó là bất thành phép (ungueltig: invalide). Ngày xưa, còn bị "rút phép thông công" (exkommuniziert: excommunié). Trong khi đó, muốn cử hành hôn phối dị tín, chỉ cần xin phép (Erlaubnis: permission) Tòa Giám mục. Nếu không, Giáo luật (CIC 1124) chỉ coi đó là hôn phối bất hợp pháp (unerlaubt: illicite) mà thôị Như thế, hôn nhân dị giáo vẫn còn là một ngăn trở; trong khi đó hôn nhân dị tín không còn là một ngăn trở như trước nữạ
Khi có đơn xin của Linh mục hữu trách, Tòa Giám mục sẽ chuẩn, để hai người có thể cử hành hôn phối dị giáo với nhaụ Phép chuẩn thường đi đôi với điều kiện: Phiá Công giáo hứa sẽ tiếp tục giữ đạo và luôn ý thức trách nhiệm lo cho con cái sau này được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy và giáo dục chúng theo đường lối của GH. Dĩ nhiên, phiá không Công giáo cũng cần biết trước về những nghiã vụ của người Công giáo mà họ muốn kết hôn.
Dù chuẩn chước như thế, nhưng cả hai GH Tin Lành cũng như Công giáo đều khuyên các tín hữu nên khôn ngoan, vì một cuộc hôn nhân như vậy có thể gây nguy hại cho Đức tin của mình và cho hạnh phúc của gia đình mình, nhất là đối với hôn nhân dị giáọ Dĩ nhiên có những trường hợp đặc biệt, khi cả hai cùng sống đạo sốt sắng, họ trở thành "gạch nối" sống động giữa những người Công giáo và những người không Công giáọ Tuy nhiên, cũng không thiếu những trường hợp cả hai sẽ dần dần "nguội lạnh". Chẳng ai còn tha thiết tới vấn đề tôn giáo và dửng dưng với cả vấn đề giáo dục con cái trong lãnh vực Đức tin. Đó là điều nguy hiểm. Khi lớn lên, con cái họ có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng tâm linh, vì khó xác định được căn tính đạo giáo của mình, và vì thế dễ biến thành "vô thần" trong thực hành... Đứng trước khó khăn thực tế đó, GH có bổn phận khuyên phía Công giáo hãy cố gắng lo cho con cái mình được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy và giáo dục chúng theo đường lối GH, để chúng sớm có một "tổ ấm" yên vui về mặt tâm lý cũng như tâm linh (GH Chính Thống cũng khuyên như thế, khi chuẩn chước việc cử hành hôn phối với người ngoài Chính thống). Trường hợp đã cố gắng hết sức mà không thành, người Công giáo vẫn có bổn phận đồng hành với con cái trong đời sống tôn giáo và cầu nguyện cho chúng, bằng chính đời sống và gương mẫu của mình.
Ngày nay, khi chuẩn bị hôn phối cho những cặp không cùng một tôn giáo, người ta có dịp nghe lại một nhận xét quen thuộc: "Đạo nào cũng là đạo". Nhận xét đó thường đi liền với kết luận: "Đạo ai người đó giữ". Kết luận này không nên hiểu theo nghiã tiêu cực là "thả lỏng" cho người kia giữ đạo, mà còn cần được hiểu theo nghiã tích cực là cả hai cùng khuyến khích và nâng đỡ nhau sống đạo của mình nữạ Ngoài ra, để bảo vệ và xây dựng hạnh phúc chung, hai người cần biết thêm về những điểm tương đồng cũng như dị biệt trong niềm tin của nhau, để kính trọng nhau bằng cách tôn trọng niềm tin đó suốt đờị
Đứng trước một cuộc hôn nhân như thế, nếu có đặt vấn đề giáo dục con cái trong tương lai, người ta cũng thường nghe: "Cứ để lớn lên, rồi chúng chọn". Đó là một quyết định đẹp trong lý thuyết, nhưng rất tiếc không đẹp trong thực hành. Lý do dễ hiểu, là nếu con cái sau này lớn lên trong một bầu khí "phi tôn giáo" như thế, chúng sẽ biết gì để mà chọn. Muốn chọn lựa chín chắn, cần phải biết rõ về những cái mình sẽ chọn. "Paris không được kiến thiết trong một ngày", kiến thức cũng không rộng trong vòng một buổị Đó là chưa nói tới tâm tình tôn giáo cần phải được nuôi dưỡng lâu dài, hoặc trường hợp ngoài ý muốn của mọi người là chúng sẽ "chọn" cái không chọn gì hết!
Dĩ nhiên, khi yêu nhau người ta sẵn sàng chấp nhận vượt qua mọi biên giớị Nhưng khi vượt được biên giới, cũng có nghiã là bắt đầu sống tha hương. Trong thực tế, mấy ai tha hương mà hạnh phúc: hạnh phúc đích thực? Hơn nữa, khi yêu "tình sẽ mạnh hơn sự chết". Đó là tình lý tưởng. Pha một chút lãng mạn. Nhưng khi sống, cần thực tế, hôn nhân mới hạnh phúc. Để xây dựng hạnh phúc, cần con tim và cần cả lý trí. "Hai trái tim vàng" thôi chưa đủ, cần hai bộ óc sáng suốt nữạ Chút men lãng mạn sẽ làm cho người ta say, nhưng luồng gió thực tế sẽ làm cho người ta tỉnh. Chỉ tiếc, khi tỉnh mộng trên con đường một chiều cũng là lúc người ta bắt đầu sống thực với ác mộng dài lâụ Trong thực tế, đã có nhiều người sống với ác mộng như thế. Vì theo các nhà nghiên cứu về hôn nhân và gia đình như Bumpass, Sweet, Diekmann, Heaton, Kuenzel và Teachman, các cuộc hôn nhân giữa những người không cùng một niền tin thường dễ đưa đến đổ vỡ hơn là những trường hợp bình thường khác.
UBMV Gia Đình
MỤC ĐÍCH VÀ ĐẶC TÍNH CỦA BÍ TÍCH HÔN NHÂN
Ị Ý NIỆM VỀ BÍ TÍCH
1. Ý niệm chung về các Bí Tích
Bí Tích là dấu bên ngoài để chỉ ơn Chúa ban bên trong hầu giúp ta nên thánh.
Có bảy Bí Tích: Rửa Tội, Thêm Sức, Thánh Thể, Sám Hối, Xức Dầu Bệnh Nhân, Truyền Chức và Hôn Phốị
Chúa Giêsu là người thiết lập các Bí Tích, Giáo Hội chỉ có quyền ban hành các Bí Tích thôị
Các Bí Tích có thể phân biệt:
1) Bí tích kẻ chết (Rửa Tội, Sám Hối, Xức Dầu) và bí tích kẻ sống (Thêm Sức, Mình Thánh, Truyền Chức, Hôn Phối);
2) Bí tích chỉ chịu một lần (Rửa Tội, Thêm Sức, Truyền Chức) và bí tích được chịu nhiều lần (Mình Thánh, Sám Hối, Xức Dầu, Hôn Phối).
Bảy Bí Tích quan hệ đến tất cả các giai đoạn và các giờ phút quan trọng của đời sống người kitô hữu : Bí tích thai sinh (Rửa Tội), tăng trưởng (Thêm Sức, Thánh Thể), chữa lành (Sám Hối, Xức Dầu) và trao sứ mạng (Truyền Chức, Hôn Phối). Nhờ lãnh nhận các bí tích, người kitô hữu sống vững và tuyên chứng đức tin.
Xem GL 834-848; GLCG 1210-1211.
2. Ý niệm riêng về bí tích Hôn Phối
Hôn phối trước tiên là một giao ước hay một khế ước được tự do ký kết giữa một người nam và một người nữ và có giá trị trọn đời của cả hai ngườị
Chúa Giêsu là người đã nâng giao ước hôn phối lên hàng Bí Tích hầu giúp đôi bạn nên thánh. (Đọc Phúc âm Mt 19,3-6).
Hôn phối được định nghĩa là "một cộng đồng đích thực về sự sống và tình yêu đúng như Giáo Hội Công Giáo vì trung thành với Đức Kitô mà chủ trương" (Véritable communauté de vie et d'amour, telle que l'entend l'Eglise catholique dans sa fidélité au Christ)
Xem GL 1055; GLCG 1601-1604.
IỊ MỤC ĐÍCH CỦA HÔN PHỐI
Tự bản tính, hôn phối hướng về 1) ích lợi tinh thần và thể xác của đôi bạn - 2) bổn phận sinh dưỡng và giáo dục con cái (GL 1055).
1. Ích lợi tinh thần
Để đạt được và làm phát triển dồi dào những ích lợi tinh thần trong đời sống lứa đôi, đôi bạn phải ý thức và xác tín rằng:
1) Tình yêu của đôi bạn là tình yêu thánh thiện (amour sacré), tình yêu phát xuất từ Thiên Chúạ
2) Bước vào đời sống hôn nhân là đôi bạn tự do chọn lựa một ơn gọi "sống hạnh phúc và thánh thiện trong đời sống gia đình".
3) Sự thánh thiện và hạnh phúc của đôi bạn, của gia đình trực tiếp ảnh hưởng đến hạnh phúc và sự thánh thiện của Giáo Hội và nhân loạị
4) Vì thế Giáo Hội luôn cầu nguyện cho các đôi bạn, đề cao tình yêu và hạnh phúc gia đình, nhắc nhủ đôi bạn sống lương thiện và nên thánh.
5) Yêu nhau là đôi bạn "chịu trách nhiệm về nhau toàn diện" không nguyên về đời sống thể xác và vật chất, mà cả đời sống tinh thần, đạo đức và luân lý.
6) Chịu trách nhiệm về nhau có nghĩa là mỗi ngày vợ chồng phải cầu nguyện cho nhau, cho tình yêu của hai người; vợ chồng phải biết xây dựng lẫn nhau, sửa lỗi và chỉ dẫn cho nhau, khích lệ nhau làm điều tốt.
7) Vợ chồng cần biết "dẹp tự ái" để lắng nghe nhau, phải biết nói lời "cám ơn" hay "xin lỗi" nhaữ...
Tóm lại, hãy sống lời dạy của thánh Phaolô: "Anh chị là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, những người thánh thiện và được yêu thương. Anh chị hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và hãy tha thứ cho nhau, nếu người này có chuyện phải oán trách người kiạ Như Chúa đã tha thứ cho anh chị, anh chị cũng hãy tha thứ cho nhaụ Trên hết mọi sự, anh chị hãy có đức yêu thương, đó là giây ràng buộc mọi điều toàn thiện. Nguyện xin bình an của Đức Kitô làm chủ trong lòng anh chị, sự bình an mà anh chị đã được kêu gọi tới hưởng thụ để làm nên một thân thể ... (Col 3,12-15)
2. Ích Lợi về thể xác
Tình yêu của đôi bạn là tình yêu thánh thiện, nhưng đồng thời cũng là tình yêu nhân bản (Amour humain), tình yêu giữa một người với một ngườị Nói khác, tình yêu của đôi bạn phải được bày tỏ ra qua những thể thức của con người bình thường. Vì thế, đời sống sinh lý, và những cử chỉ hôn nhau, vuốt ve nhau, làm tình với nhau ... là những điều hợp pháp (légitime), cần thiết (indispensable) và công phúc (méritoire). Đừng coi thường đời sống sinh lý vợ chồng. Đây là vấn đề rất quan trọng, rất tế nhị của đời sống lứa đôị Mỗi người phải đọc một vài cuốn sách nói về "tâm sinh lý" của vợ chồng để biết hiểu nhau, kính trọng nhau, chia sẻ cho nhau và biết hiến thân cho nhau làm sao cho đúng.
Chúng ta hãy đọc ở đây lời giáo huấn của Công Đồng Vatican II: "Tình yêu vợ chồng cao cả, vì từ một nhân vị hướng đến một nhân vị khác bằng một tình cảm tự nguyện, do đó bao gồm hạnh phúc toàn diện của con ngườị Nên tình vợ chồng có thể lồng vào những biểu lộ của thể xác và tâm hồn một phẩm giá đặc biệt, và khiến chúng trở nên cao qúy như những yếu tố và dấu hiệu đặc thù của tình yêu đôi bạn. Bởi một ân huệ đặc biệt của ân sủng, và của tình lân mẫn, Chúa đã đoái thương chữa trị, cải thiện và nâng cao tình yêu đôi bạn. Một tình yêu kết hợp yếu tố nhân loại với yếu tố thần linh, như thế phải thấm nhuần vào cả đời sống và hướng dẫn đôi bạn biết tự do trao hiến cho nhau, qua những tâm tình và cử chỉ trìu mến. Hơn nữa, chính nhờ những hành vi quảng đại của mình mà tình yêu giữa hai người được trọn vẹn và lớn thêm. Tình yêu vợ chồng do đó vượt xa xu hướng nhục dục thuần túy, và xu hướng này, nếu được tôn thờ một cách ích kỷ, sẽ mau tan biến và kéo theo những hậu quả thảm hạị Sự âu yếm trên được biểu lộ và hoàn hảo cách đặc biệt qua những động tác riêng của hôn nhân. Bởi vậy, những hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao qúy và chính đáng. Được thi hành cách thật sự nhân linh, những hành vi ấy biểu hiện và khích lệ sự trao hiến hỗ tương, nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và biết ơn nhaữ.. (MV 49)
3. Sinh dưỡng và giáo dục con cái
Tâm lý bình thường, đôi bạn nào cũng muốn tình yêu của mình là tình yêu phong nhiêu (Amour fécond), nghĩa là muốn có con. Gia đình không con như lồng không chim. Vì thế con cái là kết tinh của tình yêu vợ chồng, là tương lai của lứa đôi, là hồng ân và phúc lộc Chúa ban. Trời có cho mới được. Tuy nhiên không thiếu gì những trường hợp "bất thường", cha mẹ coi con như một gánh nặng, một của nợ, một sự chẳng đặng đừng ... Đôi bạn đừng quên rằng, ngay từ đầu Thiên Chúa đã nói với loài người "hãy sinh con cái cho đầy mặt đất" (St 2,28), và địa vị cao cả của những người theo ơn gọi gia đình là trở thành những người cộng tác với Chúa trong việc truyền sinh, tức là việc tiếp tục tạo dựng con ngườị Tự nó "việc vợ chồng hiến thân cho nhau phải hướng về mục đích sinh sản con cái". Đó là lý do tại sao Giáo Hội khuyến khích vợ chồng đón nhận con cáị
Tuy nhiên, không phải là quyền hạn hay bổn phận Giáo Hội ấn định cho đôi bạn phải sinh mấy đứa con, hoặc sinh theo nhịp độ hai năm hay ba năm một đứạ
Việc có con hay không, có bao nhiêu đứa, khi nào có con, là quyền lợi và bổn phận của đôi bạn. Giáo Hội chỉ hướng dẫn, nhắc nhở. Đôi bạn phải lãnh nhận lấy trách nhiệm và quyền lợi của mình với MỘT LƯƠNG TÂM CÓ TRÁCH NHIỆM (une conscience responsable). Nghĩa là để quyết định sinh con hay không sinh con, đôi bạn phải cầu nguyện, cùng nhau suy nghĩ đắn đo, đối chiếu với Giáo Huấn của Giáo Hội và dựa trên những điều kiện thực tế của bản thân, của gia đình và của xã hội mà đôi bạn đang sống.
Trong số 10 của thông điệp "Sự Sống và Con Người" (Humanae Vitae), Đức Phaolô VI nhấn mạnh "lương tâm trách nhiệm" này, và Ngài cắt nghĩa: "Lương tâm có trách nhiệm "
1) theo phương diện sinh lý, là tôn trọng lề luật của các tiến triển sinh lý (nó cũng thuộc về nhân vị);
2) theo phương diện chế ngự các xu hướng bản năng và dục vọng, là biết tự chủ theo lý trí;
3) theo phương diện hoàn cảnh kinh tế, tâm lý xã hội, là quyết định tùy theo hoàn cảnh cho phép thêm con hay không;
4) theo phương diện luân lý, là quyết định và thực hiện quyết định đó một cách thích hợp với nhiệm vụ đối với Chúa, đối với chính mình, đối với gia đình và xã hộị
5) theo phương diện kitô hữu, là cố trung thành với Giáo huấn của Giáo Hội về Hôn nhân. (xem "Công Đồng Chung Vatican II", chú thích trg.804).
Từ đó, hai vấn đề cụ thể phải nói đến:
1- Vấn đề hạn chế sinh sản (contraception)
Theo giáo huấn của Công đồng Vatican II trong Hiến chế Mục Vụ "Niềm Vui và Hy Vọng" (Gaudium et Spes) số 51, chúng ta thấy:
1) Công đồng công nhận rằng: Vợ chồng muốn sống theo lý tưởng hôn nhân, nhiều lúc sẽ phải hạn chế số con. Nhưng không gần gũi nhau, hay chỉ theo chu kỳ của người vợ, có thể làm hại cho tình yêu nhau, do đó cũng làm hại cho đời sống hôn nhân và cho con cái nữạ
2) Vậy khi cần hạn chế sinh sản, có thể dùng phương pháp nàỏ Công Đồng chỉ trả lời một cách đại cương mà thôi: Phải loại trừ phương pháp xấu xa như giết người, phá thai và giết trẻ em. Rồi Công Đồng dạy nguyên tắc phải áp dụng trong việc chọn lựa phương pháp.
3) Điều kiện để chọn một phương pháp ngừa thai:
a) Vợ chồng phải có ý ngay lành, tức là phải có LƯƠNG TÂM TRÁCH NHIỆM.
b) Phương pháp phải xứng hợp với các quy tắc khách quan về luân lý, nghĩa là phải tôn trọng giá trị của sứ mệnh lưu truyền sự sống và tôn trọng phẩm giá con ngườị
c) Vợ chồng ý thức rằng "khiết tịnh hôn nhân là cần thiết". Vợ chồng phải cố trung thành với Giáo Huấn của Giáo Hộị
2- Vấn đề phá thai (avortement)
Phá thai là tội trạng đi ngược với sự sống (MV 51). Giết thai nhi khi chưa thành hình (chừng 6 tuần đầu) có lẽ không phải sát nhân (thần học cũng như khoa học chưa chắc về vấn đề thai nhi ấy đã sống do linh hồn nhân loại chưa), nhưng chắc chắn sự phá thai đó là giết mạng sống đã có đặc tính nhân loạị Hơn nữa, vì có lẽ đã có linh hồn nhân loại rồi, nên phá thai là liều lĩnh giết người và đó là một tội, và sát hại một kẻ không những hoàn toàn vô tội mà còn là đứa con của chính kẻ sát nhân. Dù trường hợp người mẹ lâm nguy, cũng không thể giết thai nhi để cứu mẹ, vì mạng sống của thai nhi cũng như của chính người mẹ là thuộc quyền của Chúa, không ai có quyền cất đị Không bao giờ được phép làm sự dữ, dù với mục đích tốt lành. Chẳng may vì lý do nhiều vụ phá thai bất hợp pháp và làm trong hoàn cảnh thiếu cẩn thận (nhiều khi do người không phải là bác sĩ và thiếu phương tiện), nên nhiều quốc gia đã lập luật cho phép phá thai với một số điều kiện bảo đảm. Phải hiểu rõ là dù có luật như thế đi chăng nữa, "cho phép" chỉ có thể có nghĩa là luật pháp không coi vụ phá thai đó là tội trạng mà các tòa án phải trừng phạt, chứ không có nghĩa phá thai không phải là tộị Công Đồng khẳng định: "Phá thai là tội ác đáng ghê tởm" (MV 27, 51). Vì thế Giáo Luật hiện nay quy định nghiêm khắc như sau:
Tất cả những ai thi hành việc phá thai và việc phá thai có kết quả, sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết (Excommunicatio latae sententiae) (GL 1398) Vạ này không "dành riêng cho tòa thánh", Đức Giám Mục giáo phận có quyền tha vạ này (GL 1355,2) và thường Ngài ủy quyền này cho các cha sở.
Những người phạm tội cố sát hoặc phá thai có hiệu quả và tất cả những người cộng tác tích cực vào các tội đó đều bị cấm: 1) không được chịu chức thánh (GL 1041,4), 2) không được hành xử các chức thánh đã lãnh nhận (GL 1044,3).
Chỉ mình Toà Thánh có quyền miễn chuẩn cho những người đã công khai hay kín đáo "phá thai có hiệu qủa hoặc cộng tác tích cực vào việc phá thai" để họ được chịu chức thánh (GL 1047,2/2). Trong đơn xin miễn chuẩn, đương sự phải khai rõ số lần đã phạm (GL 1049,2)
IIỊ ĐẶC TÍNH CỦA HÔN PHỐI
Theo Phúc Âm thánh Matthêu, sau khi tuyên bố "Bởi lẽ đó, người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ, và luyến ái người vợ của mình, và cả hai sẽ thành nên một huyết nhục, như thế họ không còn phải là hai, nhưng là một huyết nhục", Chúa Giêsu kết luận: "Vậy điều gì mà Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly" (Mt 19,4-6). Dựa vào đó, Giáo Luật điều 1056 quy định: "Những đặc tính căn bản của hôn phối là sự duy nhất bất khả phân ly. Nhờ tính cách Bí Tích, những đặc tính ấy được kiện toàn trong hôn phối Kitô giáo". Thực tế mà nói "hôn phối duy nhất" là "chỉ có một vợ một chồng" hay "nhất phu nhất phụ", và "hôn phối bất khả phân ly "là không "có vấn đề ly dị".
1. Nhất phu nhất phụ
Thiên Chúa đã ấn định đặc tính này của hôn nhân ngay trong việc sáng tạo loài ngườị Ngài chỉ dựng nên một Adong và một Eva, chứ không hai Adong và một Eva hay một Adong và hai Evạ Do đó "một vợ, một chồng là quy luật của Thiên Chúa". Luật này đã bị vi phạm rất nhiều lần, kể cả bởi các tổ phụ trong thời Cựu Ước. Đức Kitô đã tái lập lại trật tự của thuở ban đầu và ban ơn thánh để giúp vợ chồng sống chung thủy với nhaụ Nghịch với đặc tính "nhất phu nhất phụ" là "đa thê hay đa phu" hiện đang có ở nhiều tôn giáo, nhiều phần đất trên thế giớị Dân luật của nước Pháp chỉ chấp nhận chế độ "nhất phu nhất phụ" .
2. Bất khả phân ly
Để trung thành với lệnh truyền của Chúa Giêsu "Điều mà thiên Chúa liên kết loài người không được phân ly", mỗi người trẻ sắp bước vào đời sống hôn nhân xác tín trong tờ "khai chí hướng" (Déclaration d'intention) rằng: "Với sự quyết tuyển tương hỗ này, tôi muốn thiết lập giữa hai chúng tôi một mối giây thánh mà trót đời chúng tôi, không một nguyên nhân nào có thể phá hủy. Tôi quyết tâm làm mọi cách để tình yêu của hai chúng tôi lớn mạnh trong sự chung thủy toàn diện". Nói một cách khác đôi bạn nhất trí chung thủy, sống với nhau trọn đời, không chấp nhận việc ly dị.
Không chấp nhận việc ly dị, đó là điều đã được khẳng định trong Giáo Luật điều 1141: "Hôn phối thành nhận và hoàn hợp không thể bị tháo gỡ bởi một quyền bính nhân loại hay một nguyên do nào khác ngoại trừ sự chết". Hôn phối thành nhận (conclu) là khi đôi bạn đã làm hôn thú, đã lãnh bí tích và hôn phối hoàn hợp (consommé) là sau ngày cưới, đôi bạn đã giao hợp với nhaụ
Tại sao Giáo Hội không cho phép ly dị ?
Có nhiều lý do:
1) Trung thành với luật của Chúa, Đấng đã dựng nên đôi vợ chồng đầu tiên, chỉ có một ông Adong và một bà Eva (xem St 2,21-23), và đã ấn định tính cách vững bền của hôn nhân khi truyền lệnh "Điều mà Thiên Chúa liên kết, loài người không được tháo gỡ" (Mt 19,6).
2) Bảo đảm hạnh phúc cho đôi bạn, bằng cách giúp đôi bạn giữ trọn lời đã giao ước với nhaụ Quả vậy, sau những ngày tháng tìm hiểu, suy nghĩ và cầu nguyện, đôi bạn đã long trọng và công khai giao ước với nhau trong ngày lễ thành hôn, trước sự chứng giám của linh mục, hai nhân chứng và cả cộng đoàn. Người nam giao ước với người nữ : "Anh nhận em làm vợ và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em mọi ngày suốt đời anh". Người nữ cũng giao ước với ngừơi nam như vậy. Sống trọn lời giao ước đó mỗi ngày là chìa khóa tạo hạnh phúc cho nhaụ
3) Bảo đảm hạnh phúc cho con cái của họ. Càng thương nhau, càng chung thủy với nhau, đôi bạn càng chung sức trong trách nhiệm "sinh dưỡng và giáo dục con cái". Kinh nghiệm thực tế minh xác điều đó.
Những điều trên đây được đúc kết trong giáo huấn của Công Đồng Vatican II: "Bởi giao ước hôn nhân, người nam và người nữ ‘không còn là hai nhưng là một xương thịt’ (Mt 19,6) phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly" (MV 48).
IV. TÓM KẾT
Như vậy, về phạm vi xã hội, hôn phối là một khế ước giữa một người nam và một người nữ đã tự do kết ứơc và do đó, có giá trị trọn đời của đôi bạn; về phạm vi giáo lý công giáo, hôn phối là một bí tích Chúa Giêsu đã lập và Giáo Hội ban hành để thánh hiến tình yêu vợ chồng và giúp đôi bạn hưởng trọn vẹn hạnh phúc và đảm nhận mọi trách nhiệm của hôn nhân. Đôi bạn chỉ là vợ chồng thật trước mặt Giáo Hội khi hôn phối của đôi bạn được cử hành đúng theo luật dân sự và luật giáo hộị Theo giáo lý công giáo, mục đích của hôn phối là vợ chồng tương hỗ nhau về mọi phương diện trong đời sống tâm linh và sinh lý, tinh thần và vật chất, để nhờ đó, đôi bạn chung sức sinh, dưỡng và giáo dục con cáị Để đạt tới những mục đích trên, hôn phối công giáo mang hai đặc tính căn bản là "nhất phu nhất phụ" và "bất khả phân ly". Nói một cách khác, nếu tình yêu là yếu tố nền tảng của hôn phối thì tình yêu ấy mang bốn đặc tính căn bản: thánh thiện, nhân bản, chung thủy và phong nhiêụ
Đức Ông Mai Đức Vinh, Paris